Giá lúa gạo hôm nay tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có xu hướng tăng 50 đồng/kg với mặt hàng gạo.
Giá lúa gạo hôm nay tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có xu hướng tăng 50 đồng/kg với mặt hàng gạo.
Sự việc ra đời Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam khiến không ít người thắc mắc rằng: Trong lĩnh vực lúa gạo suốt nhiều năm qua đã có Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) tập hợp các doanh nghiệp chuyên kinh doanh và xuất khẩu gạo. Liệu Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam có sự chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ với Hiệp hội Lương thực Việt Nam?
Quyết định của Bộ Nội vụ cho phép thành lập Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam
Được biết, Hiệp hội Lương thực Việt Nam, tiền thân là Hiệp hội Xuất nhập khẩu Lương thực Việt Nam, được đổi tên là Hiệp hội Lương thực Việt Nam theo quyết định số 33/1999/QĐ-BTCCBCP ngày 26/08/1999 của Trưởng Ban Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ.
Hiệp hội Lương thực Việt Nam là tổ chức xã hội nghề nghiệp phi chính phủ phi lợi nhuận của những người, tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, chế biến, kinh doanh lương thực, nông sản và các sản phẩm chế biến từ lương thực tại Việt Nam.
Trong 2 thập kỷ qua, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã rất nỗ lực góp phần đẩy nhanh tiến độ tiêu thụ lúa gạo hàng hóa, phần nào giảm thiểu được ”điệp khúc” mất mùa được giá và mất giá được mùa của bà con nông dân ở các địa.
Đồng thời, Hiệp hội Lương thực Việt Nam cũng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh của ngành lương thực; góp phần bảo đảm an ninh lương thực theo chủ trương chính sách của Nhà nước. Việc tham gia của Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã góp phần bảo đảm an ninh lương thực theo chủ trương chính sách của Nhà nước.
Tuy vậy, một doanh nghiệp tư nhân lớn về xuất khẩu gạo, cho rằng mô hình Hiệp hội Lương thực Việt Nam, trong đó thường do lãnh đạo một doanh nghiệp Nhà nước làm Chủ tịch đã không còn phù hợp với các doanh nghiệp tư nhân của ngành lúa gạo.
Cũng theo doanh nghiệp này, nhiều năm qua, hoạt động điều hành của Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã gây méo mó thị trường xuất khẩu gạo. Hiệp hội Hiệp hội Lương thực Việt Nam chỉ phục vụ một nhóm nào đó, nên cần được tổ chức lại để đảm bảo hiệp hội có các thành phần doanh nghiệp, bao gồm khối dân doanh rộng hơn, đại diện thực chất của hợp tác xã và nông dân.
Ông Phạm Thái Bình – Giám đốc Công ty TNHH Trung An (TP Cần Thơ) cho hay, nếu đúng vai trò của mình thì Hiệp hội Lương thực Việt Nam phải tập hợp được các hội viên làm vùng nguyên liệu lớn, nhưng nhiều năm qua Hiệp hội này đã không tập hợp được để chủ động trong xuất khẩu gạo.
“Rất nhiều lần Hiệp hội Lương thực Việt Nam đề nghị Chính phủ cho chủ trương mua tạm trữ xuất khẩu gạo, trong khi nông dân chưa thu hoạch. Tầm nhìn của Hiệp hội Lương thực Việt Nam chỉ phục vụ mục đích, nhóm nào đó thôi”, ông Bình nhận định, đồng thời cho biết mỗi khi Chính phủ đồng ý cho thu tạm trữ lúa gạo, thì những doanh nghiệp nhà nước thành viên VFA được hưởng lãi suất ưu đãi cạnh tranh với doanh nghiệp tư nhân có hợp tác với nông dân.
“Về vấn đề xúc tiến thương mại, Hiệp hội Lương thực Việt Nam tổ chức nhiều nhưng không hiệu quả bởi cách làm cũ là thành lập đoàn, kêu gọi doanh nghiệp đóng tiền. Hiệu quả không cao nên nhiều doanh nghiệp hiện tự… đi lẻ bởi đi như vậy họ có mục đích, có đối tượng hẳn hoi”. Ông Phạm Thái Bình – Giám đốc Công ty TNHH Trung An (TP Cần Thơ).
Ông Trần Chí Viễn, Bí thư Đảng ủy Khối Các cơ quan – Doanh nghiệp tỉnh Kiên Giang nhận xét, lâu nay, Hiệp hội Lương thực Việt Nam chưa đặt mình vào vị trí của người nông dân. Nông dân Việt Nam cần ít nhất một bộ giống lúa xác nhận cấp quốc gia để từ đó tạo dựng thương hiệu cho gạo Việt. Nhưng rất tiếc chưa bao giờ Hiệp hội Lương thực Việt Nam quan tâm tới vấn đề này.
“Nông dân chưa từng hưởng lợi từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam, bởi rất nhiều năm, rất nhiều lần sau khi chạy được quota xuất khẩu xong, các doanh nghiệp được Hiệp hội Lương thực Việt Nam chọn để xuất khẩu gạo mới bắt đầu tìm thương lái, thông báo số lượng. Thương lái ém thông tin để ép giá nông dân”, ông Viễn nêu thực tế.
TS. Trần Hữu Hiệp, nguyên ủy viên chuyên trách Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, cho rằng theo điều lệ, Hiệp hội Lương thực Việt Nam là một tổ chức xã hội, nghề nghiệp của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, kinh doanh lương thực, nông sản và các sản phẩm chế biến từ lương thực. Vì vậy, tôn chỉ, mục đích đầu tiên của Hiệp hội Lương thực Việt Nam phải là “bảo vệ quyền lợi chính đáng của hội viên”. Trong khi lúa gạo là lĩnh vực liên quan hơn 10 triệu hộ nông dân.
Hiện nhận thức về an ninh lương thực đang thay đổi căn bản từ cách tiếp cận “đủ gạo ăn” là chủ yếu sang tiếp cận đa ngành, đảm bảo sinh kế bền vững cho nông dân. Điều kiện tự nhiên, tổ chức sản xuất thay đổi cùng công nghệ mới đang dẫn đến những thay đổi chuỗi giá trị lúa gạo. Điều đó yêu cầu tăng cường liên kết chặt chẽ hơn đòi hỏi các hiệp hội như VFA phải được đổi mới về vai trò, chức năng, phương thức hoạt động.
“Tôi cho rằng cần tổ chức lại Hiệp hội Lương thực Việt Nam để đảm bảo hiệp hội có các thành phần doanh nghiệp (bao gồm khối dân doanh rộng hơn), đại diện thực chất của hợp tác xã và nông dân. Qua đó, Hiệp hội Lương thực Việt Nam cần tăng cường các hoạt động thực chất hơn. Các hiệp hội ngành hàng nói chung và Hiệp hội Lương thực Việt Nam nói riêng không nên bị “hành chính hóa”, TS. Trần Hữu Hiệp nêu quan điểm.
Chủ một doanh nghiệp tư nhân lớn về xuất khẩu gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long chia sẻ, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam khi thì thuộc về lãnh đạo Tổng công ty Lương thực miền Bắc, khi thì do lãnh đạo Tổng công ty Lương thực miền Nam đảm nhiệm. Họ thường chỉ thực thi vai trò bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp nhà nước, không làm tròn vai trò bảo vệ hội viên là đông đảo các doanh nghiệp tư nhân.
Trước kia, xuất khẩu gạo chủ yếu vào các thị trường tập trung Chính phủ, điển hình là xuất khẩu sang Philippine. Các thị trường này thường do Tổng công ty Lương thực miền Bắc và Tổng công ty Lương thực miền Nam chi phối. Nhưng ngày nay, các doanh nghiệp tư nhân xuất khẩu gạo ngày càng lớn mạnh, xuất khẩu gạo sang các thị trường lớn như châu Âu, Trung Đông… với giá cao.
“Hiện nay, phần lớn tỷ trọng trong xuất khẩu gạo của Việt Nam đã thuộc về các doanh nghiệp tư nhân. Do dó, cộng đồng các doanh nghiệp tư nhân xuất khẩu gạo của nước ta cần có Hiệp hội mới để đáp ứng nhu cầu và vì lợi ích chung của các doanh nghiệp. Do đó, sự ra đời của Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam là cần thiết, đáp ứng mong muốn của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu lúa gạo”, doanh nhân này khẳng định.
Nguồn: https://vneconomy.vn/nganh-lua-gao-co-noi-nuong-tua-moi.htm
Hoạt động theo phương châm “Chất lượng tiên phong”, Bao Bì Giấy Hoàng Vương luôn hướng đến giải pháp bao bì bền vững thân thiện môi trường. Chúng tôi tự hào là đơn vị sản xuất bao bì của Việt Nam đạt được những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng:
Với hơn 13 năm hoạt động trong lĩnh vực bao bì giấy và tạo dựng được uy tín thương hiệu trên thị trường, bao bì giấy Hoàng Vương tự hào là doanh nghiệp bao bì tư nhân của Việt Nam được đồng hành với nhiều thương hiệu lớn trong và ngoài nước. Bao bì giấy Hoàng Vương luôn đồng hành cùng quý công ty trong hành trình tìm kiếm sáng tạo, tìm kiếm sự khác biệt đổi mới. Sự thành công của bạn là thành quả và cũng là động lực để chúng tôi tiếp tục sáng tạo hơn nữa, chuyên nghiệp hơn nữa.
Nguồn cung lúa gạo ở Đông Nam Á
(SGTT) - Trong khi nhu cầu lúa gạo phải tăng thêm thì năng suất tự nhiên của lúa đang giảm do biến đổi khí hậu, đặt ra bài toán lớn cho các nền kinh tế lúa gạo trong khu vực Đông Nam Á.
Châu Á sản xuất đến 90% lúa gạo cho thế giới, trong đó Thái Lan, Việt Nam luôn nằm trong nhóm ba nước xuất khẩu gạo nhiều nhất.
Tuy nhiên, ngân hàng SDB cho biết mức tăng sản lượng hàng năm tại các nước Đông Nam Á cũng chỉ vào khoảng 1,22%, đưa tổng sản lượng gạo khu vực lên mức 128,3 triệu tấn cho niên vụ 2021-2022.
Các thống kê cho thấy gạo cung cấp 20% lượng calorie toàn cầu, tương đương với 475.635 tấn gạo tiêu thụ trong năm 2017.
Hệ lụy của biến đổi khí hậu lên năng suất lúa đã mạnh hơn người ta tưởng. Viện Nghiên cứu Chính sách thực phẩm quốc tế (IFPRI) cho biết, mức giảm năng suất có thể lên đến 10-15% trong năm 2025, kéo theo giá lúa tăng từ 30-37%. Điều này đã thể hiện rất rõ tại Thái Lan khi nơi này chịu đợt hạn hán kéo dài giữa năm 2016 làm giảm đến 16% tổng sản lượng lúa.
Thiếu nước, sâu bệnh, khí quyển nóng lên, độ mặn xâm nhập vào ruộng mỗi năm một sâu, và việc đối phó đôi khi trở thành trận chiến hoặc thắng hoặc thua. Sản lượng lúa toàn cầu đã từ 578 triệu tấn trong niên vụ 2000-2001, giảm xuống còn 576 triệu tấn trong niên vụ 2001-2002. Sau đó, con số này tiếp tục giảm xuống 548 triệu tấn niên vụ 2002-2003, rồi 534 triệu tấn niên vụ 2003-2004 do nông dân chưa có kinh nghiệm đối phó với những vấn đề biến đổi khí hậu. Đà tăng sản lượng được phục hồi một cách nhọc nhằn kể từ niên vụ 2004-2005 với 542 triệu tấn, vượt lên 601 triệu tấn trong niên vụ 2009-2010 và 712 triệu tấn niên vụ 2014-2015 rồi khựng lại ở mức này suốt nhiều năm sau.
Điều này cho thấy việc gia tăng sản lượng, giữ vững năng suất, canh tác bền vững và giữ vững chất lượng hạt gạo không dễ chút nào trong bối cảnh thời tiết mỗi năm mỗi trở nên khắc nghiệt và trong chiều hướng diện tích canh tác bị thu hẹp lại.
Trên bình diện kinh tế, lúa gạo vừa là nguồn tự túc lương thực vừa là nguồn xuất khẩu, và các nền kinh tế lúa gạo Đông Nam Á thường có sự cân đối giữa nhu cầu sử dụng nội địa và việc thu ngoại tệ. Kế hoạch tự túc lương thực rõ nét nhất ở Indonesia với mục tiêu 100% lúa, bắp và đậu nành vào năm 2017, và đường, thịt bò vào năm 2019. Malaysia đặt mức tự túc 90% gạo. Trong khi đó Việt Nam quyết giữ mức tăng 2,5% sản lượng lúa hàng năm và giữ diện tích trồng lúa ở mức 3,8 triệc héc ta. Philippines và Lào đi theo chiều hướng của Việt Nam nhưng đẩy mạnh đa dạng hóa nguồn lương thực thay gạo. Trong khi đó Myanmar, Campuchia và Thái Lan không quy định mức tự túc lương thực.
Cạnh tranh ráo riết trên thị trường xuất khẩu
Các nước xuất khẩu gạo chính hiện nay là Ấn Độ với 12,5 triệu tấn trong niên vụ 2017-2018, tiếp theo là Thái Lan 10,2 triệu tấn, Việt Nam 6,7 triệu tấn, Pakistan 3,8 triệu tấn, Myanmar 3,3 triệu tấn, Mỹ 3,3 triệu tấn, Trung Quốc 1,6 triệu tấn, Campuchia 1,25 triệu tấn, Uruguay 810 ngàn tấn, và Brazil 650 ngàn tấn. Ở đây thị trường xuất khẩu gạo chia làm hai nhóm: Việt Nam chọn phân khúc thị trường gạo giá thấp và như vậy phải cạnh tranh về giá với các đối thủ gạo giá thấp khác như Ấn Độ. Ngược lại Thái Lan chọn phân khúc thị trường gạo giá cao, bán cho những nước giàu có hơn nhưng ngược lại phải luôn giữ chất lượng gạo thật ổn định.
Các nhà lãnh đạo kế tiếp nhau tại Thái Lan đều tập trung vào việc xuất khẩu gạo bởi nơi đây kinh tế lúa gạo nuôi sống đến gần một nửa dân số mà phần lớn là người trồng lúa. Vấn đề của họ là giữ cho chất lượng gạo luôn tốt hơn các đối thủ trên thị trường để bảo đảm vị trí dẫn đầu phân khúc gạo giá cao. Lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan giữ đều đặn ở mức tăng hàng năm 14,8% trong nhiều năm. Tại Indonesia, Bộ trưởng Nông nghiệp Amran Sulaiman cho biết lượng gạo sản xuất đã vượt nhu cầu nội địa từ năm 2017. Có thể trong nay mai Indonesia cũng sẽ trở thành đối thủ của Việt Nam trong xuất khẩu gạo giá thấp.
Việt Nam cũng đang có những toan tính riêng để ít nhất là gia tăng tỷ lệ gạo giá cao trên thị trường tiêu thụ nội địa cũng như xuất khẩu. Biện pháp trước hết là thuần hóa và đưa công nghệ vào những giống lúa ngon đặc sản ở các địa phương, tẻ cũng như nếp. Đặc biệt là việc đưa kỹ thuật nguyên tử vào một số dòng lúa hiện hữu, hoặc để làm tăng năng suất và chống sâu bệnh đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu, hoặc để tạo dòng lúa chất lượng cao nhằm cạnh tranh thị trường xuất khẩu.
Việc đưa kỹ thuật nguyên tử vào đối phó với tình trạng suy giảm năng suất nông nghiệp toàn cầu được các tổ chức quốc tế hoan nghênh và ủng hộ, nay đã lan rộng đến khoảng 70 quốc gia, áp dụng cho những loại nông sản khác nhau. Trong khi đó, tại Ấn Độ, biện pháp lai giống vẫn được ưu tiên, một mặt để đối phó với biến đổi khí hậu, mặt khác để gia tăng lượng gạo giá thấp xuất khẩu nhằm thu ngoại tệ cho nông dân.